DTC giáo lý mới về chữa lành thế giới

Nhân đại dịch Covid-19, Đức Phanxicô mở loạt bài giáo lý mới về chữa lành thế giới

Vũ Văn An
06/08/2020

Theo Vatican News, tại buổi yết kiến chung ngày thứ tư vừa qua, Đức Phanxicô đã phát động loạt bài giáo lý mới về việc chữa lành thế giới. Ngài tái tục các buổi yết kiến trên sau kỳ nghi thường lệ trong tháng Bẩy và cho biết các nhân đức tin, cậy, mến của Kitô giáo giúp ta có khả năng chữa lành các tật bệnh thể lý, xã hội và tâm linh của thời ta, như các tật bệnh được đại dịch vạch trần.

Trong một bài giáo lý được trực tuyến từ Thư viện Tông tòa vào sáng thứ Tư, Đức Thánh Cha Phanxicô bảo đảm với các Kitô hữu rằng bất chấp đại dịch Covid-19 đang tiếp tục lây nhiễm và giết người, với nhiều người, đặc biệt người nghèo, đang kinh qua những thời kỳ bấp bênh vì các vấn đề kinh tế xã hội, Vương quốc chữa lành và cứu rỗi của Thiên Chúa vẫn hiện diện, như Chúa Giêsu vốn bảo đảm với chúng ta trong Tin mừng Luca.

Chữa lành nhờ đức tin, đức cậy và đức mến

Ngài nói, Vương quốc của công lý và hòa bình này, được tỏ hiện qua các hoạt động bác ái, làm tăng và củng cố đức tin. Nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, Chúa Thánh Thần không chỉ chữa lành chúng ta mà còn khiến chúng ta trở thành những người chữa lành. Các nhân đức này “mở cửa cho chúng ta thấy những chân trời mới, ngay cả khi chúng ta đang lênh đênh trên những vùng nước khó khăn của thời đại chúng ta”.

Đức Giáo Hoàng nói, một tiếp xúc mới mẻ với “Tin Mừng đức tin, đức cậy và đức mến sẽ giúp chúng ta khả năng biến đổi các gốc rễ của tính yếu đuối thể xác và những thực hành phá hoại khiến chúng ta ngăn cách với nhau, đe dọa gia đình nhân loại và hành tinh của chúng ta”.

Chữa lành thể lý, xã hội và tâm linh

Đức Thánh Cha lưu ý rằng, trong vô số phép lạ của Người, Chúa Giêsu “chữa lành không những sự dữ thể xác mà còn chữa lành toàn bộ con người”. Nhờ khôi phục “con người trở lại với cộng đồng, Người giải phóng họ khỏi sự cô lập”.

Đức Giáo Hoàng đặc biệt chú trọng đến việc chữa lành người bại liệt tại Caphácnaum, người đã được hạ xuống tới Chúa Giêsu từ một cái lỗ trên mái nhà. Xúc động bởi đức tin của họ, trước tiên Chúa Giêsu nói với người bại liệt, “Con ơi, tội lỗi của con đã được tha thứ”. Và sau đó, như một dấu hiệu hữu hình, Người nói thêm, “Hãy chỗi dậy, vác chiếu mà về nhà”.

“Hành động của Chúa Giêsu là phản ứng trực tiếp đối với đức tin của những người đó, đối với đức cậy mà họ đặt nơi Người”, và đối với đức ái mà họ tỏ bầy cho nhau.

Chúa Giêsu không những chỉ chữa lành người bại liệt mà còn tha thứ tội lỗi của anh ta và đổi mới cuộc sống của anh ta và bạn bè anh ta như thể họ được tái sinh. Đức Giáo Hoàng nói, “Đó là một sự chữa lành về thể lý và tinh thần, kết quả của việc tiếp xúc bản thân và xã hội”; ngài tự hỏi cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và hành động chữa lành của Người đã giúp tình bạn và đức tin này phát triển ra sao trong ngôi nhà đó.

Đức Thánh Cha nhắc nhở các Kitô hữu rằng trong tư cách môn đệ của Chúa Giêsu, thầy thuốc chữa linh hồn và thể xác, chúng ta cũng được kêu gọi tiếp tục “công việc chữa lành và cứu rỗi của Người” theo nghĩa thể lý, xã hội và tâm linh.

Giáo huấn xã hội của Giáo Hội

Đức Giáo Hoàng nói rằng mặc dù Giáo hội thực hiện ơn thánh chữa lành của Chúa Kitô qua các Bí tích và cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở các vùng xa xôi nhất của hành tinh, nhưng Giáo Hội không phải là một chuyên gia trong việc phòng ngừa hoặc chữa lành dịch bệnh và không cung cấp các đề xuất chính trị xã hội chuyên biệt. Như Thánh Phaolô VI đã chỉ ra, công việc này thuộc các nhà lãnh đạo chính trị và xã hội.

Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, và dưới ánh sáng của Phúc âm, Giáo hội đã khai triển các nguyên tắc xã hội căn bản có thể giúp chúng ta tiến lên trong việc chuẩn bị tương lai mà chúng ta cần đến. Đức Giáo Hoàng nói rằng, các nguyên tắc như nhân phẩm, ý niệm về ích chung, ưu tiên chọn người nghèo, đích điểm phổ quát của hàng hóa, tính liên đới, tính phụ đới, việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta diễn tả các nhân đức tin, cậy, mến theo những cách khác nhau.

Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh, các nguyên tắc này sẽ giúp các nhà quản trị và những người cầm quyền phát triển xã hội và giúp hàn gắn các mối liên hệ bản thân và xã hội trong thời kỳ đại dịch này.

Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu trong những tuần lễ sắp tới suy nghĩ với ngài về những nguyên tắc này và những vấn đề cấp bách mà đại dịch đã vạch trần, nhất là các tệ nạn xã hội. Dưới ánh sáng Tin Mừng, đây sẽ là một trong các nhân đức đối thần và các nguyên tắc của giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng hy vọng rằng chúng có thể làm sáng tỏ các vấn đề xã hội cấp bách ngày nay và góp phần xây dựng một tương lai hy vọng cho các thế hệ tương lai.

Trong buổi yết kiến, Đức Thánh Cha cũng bày tỏ sự gần gũi của ngài với các nạn nhân và gia đình của họ bị ảnh hưởng bởi vụ nổ kinh hoàng ở thủ đô Beirut của Libăng hôm thứ Ba.

Bài giáo lý thứ hai của Đức Phanxicô về Chữa Lành Thế Giới: Nhìn nhận nhân phẩm nơi mọi người

Vũ Văn An
13/08/2020

Theo Vatican News, trong buổi yết kiến chung hôm qua, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng để đáp ứng đại dịch Covid-19, các Kitô hữu được mời gọi chống trả mọi vi phạm chống lại nhân phẩm, coi chúng như đi ngược lại Tin Mừng, và làm việc cho phúc lợi của toàn thể gia đình nhân loại và căn nhà chung của chúng ta.
Hãng tin Zenit cung cấp bản tiếng Anh của bài giáo lý nói trên, với nội dung như sau:

Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một buổi sáng tốt lành!

Đại dịch đã làm nổi bật mức độ dễ bị tổn thương và mối liên hệ qua lại giữa mọi người. Nếu chúng ta không chăm sóc lẫn nhau, bắt đầu với những người nhỏ bé nhất, với những người bị ảnh hưởng nhiều nhất, bao gồm cả sáng thế, thì chúng ta không thể chữa lành được thế giới.

Đáng khen thay nỗ lực của rất nhiều người đã và đang làm chứng cho tình yêu nhân bản và Kitô giáo đối với người lân cận, hiến thân cho người bệnh ngay cả khi nguy hiểm đến sức khỏe của họ. Họ là những đấng anh hùng! Tuy nhiên, coronavirus không phải chỉ là căn bệnh cần chống trả, mà đúng hơn, là một đại dịch đã làm sáng tỏ nhiều tệ nạn xã hội rộng lớn hơn. Một trong số đó là quan điểm méo mó về con người, một quan điểm coi thường phẩm giá và tính tương quan của con người… Đôi khi chúng ta nhìn người khác như những đồ vật, để sử dụng rồi vứt đi. Trên thực tế, kiểu quan điểm này làm mù quáng và nuôi dưỡng nền văn hóa vứt bỏ đầy tính duy cá nhân và hiếu chiến, biến con người nhân bản thành một thứ hàng hóa tiêu dùng (xem Tông huấn Evangelii Gaudium, 53; Thông điệp Laudato Si’, 22).

Thay vào đó, dưới ánh sáng đức tin, chúng ta biết rằng Thiên Chúa nhìn người đàn ông và người đàn bà cách khác. Người tạo ra chúng ta không như những đồ vật mà như những con người được yêu thương và có khả năng yêu thương; Người đã tạo ra chúng ta theo hình ảnh và giống như Người (xin xem St 1:27). Bằng cách này, Người đã ban cho chúng ta một phẩm giá độc nhất vô nhị, kêu gọi chúng ta sống hiệp thông với Người, hiệp thông với anh chị em của chúng ta, tôn trọng mọi tạo vật. Có thể nói, trong hiệp thông, trong hòa hợp. Sáng thế là sự hòa hợp mà chúng ta được kêu gọi để sống. Và trong sự hiệp thông này, trong sự hòa hợp vốn là hiệp thông này, Thiên Chúa ban cho chúng ta khả năng sinh sản và bảo vệ sự sống (x. St 1: 28-29), cày xới và gìn giữ đất đai (x. St 2:15; Laudato Si’, 67). Rõ ràng là người ta không thể sinh sản và bảo vệ sự sống nếu không có sự hòa hợp; nó sẽ bị phá hủy.

Chúng ta có một điển hình về quan điểm cá nhân chủ nghĩa đó, về quan điểm không hòa hợp đó, trong các Tin Mừng, trong lời yêu cầu ngỏ với Chúa Giêsu của người mẹ hai môn đệ Giacôbê và Gioan (x. Mt 20: 20-38). Bà muốn các con trai của mình ngồi ở bên phải và bên trái của vị vua mới. Nhưng Chúa Giêsu đề nghị một loại viễn kiến khác: đó là viễn kiến phục vụ và hiến mạng sống mình cho người khác, và Người xác nhận điều đó bằng cách lập tức khôi phục thị giác cho hai người mù và biến họ thành môn đệ của Người (xem Mt 20: 29-34). Tìm kiếm để leo lên trong cuộc sống, để vượt trội hơn người khác, sẽ phá hủy sự hòa hợp. Nó là luận lý học của sự thống trị, thống trị người khác. Sự hài hòa là một điều gì đó khác thế: nó là phục vụ.

Vì vậy, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta đôi mắt biết quan tâm đến anh chị em mình, nhất là những người đang đau khổ. Là các môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta không muốn thờ ơ hoặc theo chủ nghĩa cá nhân. Đây là hai thái độ khó chịu trái ngược với sự hòa hợp. Thờ ơ: Tôi nhìn đi hướng khác. Chủ nghĩa cá nhân: chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình. Sự hòa hợp do Thiên Chúa tạo ra yêu cầu chúng ta nhìn những người khác, các nhu cầu của người khác, các vấn đề của người khác, trong hiệp thông. Chúng ta muốn công nhận phẩm giá con người nơi mỗi người, bất kể chủng tộc, ngôn ngữ hoặc tình trạng của họ có là gì đi nữa. Sự hài hòa dẫn anh chị em đến việc nhận ra phẩm giá con người, sự hòa hợp được tạo ra bởi Thiên Chúa, với nhân tính nằm ở trung tâm.

Công đồng Vatican II nhấn mạnh rằng phẩm giá này là bất khả nhượng, vì nó “được tạo dựng‘ giống hình ảnh Thiên Chúa ’” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 12). Nó nằm ở nền tảng mọi đời sống xã hội và xác định các nguyên tắc hoạt động của nó. Trong nền văn hóa hiện đại, tham chiếu gần nhất với nguyên tắc phẩm giá bất khả nhượng của con người là Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, mà Thánh Gioan Phaolô II đã định nghĩa như một “cột mốc trên nẻo đường dài và khó khăn của loài người” (1), và như “Một trong những biểu thức cao nhất của lương tâm con người” (2). Các quyền này không những chỉ mang tính cá nhân, mà còn mang tính xã hội; chúng thuộc các dân tộc, các quốc gia (3). Con người, quả thực, trong phẩm giá bản vị của mình, là một hữu thể xã hội, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, Duy nhất và Ba Ngôi. Chúng ta là những hữu thể xã hội; chúng ta cần sống trong sự hài hòa xã hội này, nhưng khi có sự ích kỷ, cái nhìn của chúng ta không đến được với người khác, với cộng đồng mà chỉ tập chú vào chính chúng ta, và điều này làm cho chúng ta trở nên xấu xí, xấu xa và ích kỷ, phá hủy sự hài hòa.

Nhận thức đổi mới này về phẩm giá của mỗi con người có những hệ luận nghiêm trọng về xã hội, kinh tế và chính trị. Nhìn vào anh chị em của chúng ta và toàn bộ công trình sáng thế như một hồng phúc nhận được từ tình yêu của Chúa Cha truyền cảm hứng cho tác phong biết lưu tâm, chăm sóc và ngạc nhiên. Theo cách này, người tin, khi coi người lân cận của mình như anh chị em, chứ không phải như người xa lạ, nhìn họ một cách từ bi và tương cảm, không khinh thường hay thù địch. Ngắm nhìn thế giới dưới ánh sáng đức tin, với sự trợ giúp của ơn thánh, chúng ta cố gắng phát triển khả năng sáng tạo và lòng nhiệt thành của mình để giải quyết các thử thách trong quá khứ. Chúng ta hiểu và phát triển các khả năng của mình như các trách nhiệm phát sinh từ đức tin này (4), như các hồng phúc của Thiên Chúa để phục vụ nhân loại và sáng thế.

Trong khi tất cả chúng ta đều làm việc để có thuốc chữa virút hiện đang tấn công mọi người không phân biệt ai, đức tin khuyên chúng ta cam kết nghiêm túc và tích cực để chống lại sự thờ ơ khi đối đầu với những vi phạm nhân phẩm.

Nền văn hóa thờ ơ này đi kèm với nền văn hóa vứt bỏ: những thứ không ảnh hưởng đến tôi, tôi không quan tâm. Đức tin luôn đòi chúng ta phải để bản thân được chữa lành và hoán cải khỏi chủ nghĩa cá nhân, bất luận có tính cá nhân hay tập thể; chủ nghĩa cá nhân đảng phái chẳng hạn.

Cầu xin Chúa “phục hồi thị giác của chúng ta” để chúng ta khám phá lại ý nghĩa của việc trở thành thành viên của gia đình nhân loại. Và mong sao thị giác này được chuyển dịch thành những hành động cụ thể của lòng cảm thương và tôn trọng mọi người cũng như sự quan tâm và bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta.
________________
(1) Diễn văn trước Đại hội đồng Liên hợp quốc (ngày 2 tháng 10 năm 1979).
(2) Diễn văn trước Đại hội đồng Liên hợp quốc (ngày 5 tháng 10 năm 1995).
(3) Xem Tóm Lược Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội, 157
(4) Đã dẫn

Bài giáo lý Chữa lành Thế giới thứ ba của Đức Phanxicô: đại dịch càng làm nổi bật nguyên lý ưu tiên chọn người nghèo

Vũ Văn An
20/08/2020

Theo tin Tòa Thánh, sáng thứ Tư, 19 tháng 8, lúc 9 giờ 30, từ Thư Viện của Tông Điện Vatican, Đức Phanxicô đã đọc bài giáo lý thứ ba của ngài thuộc đợt Giáo Lý Chữa Lành Thế Giới nhân mùa đại dịch Covid-19, nhấn mạnh tới nguyên lý “ưu tiên chọn người nghèo và đức ái”:

Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Đại dịch đã phơi bày số phận của người nghèo và sự bất bình đẳng lớn lao đang thống trị thế giới. Và virút, trong khi không biệt ai với ai, đã tìm thấy nhiều bất công và phân biệt đối xử lớn lao, trong cuộc tấn công tàn phá của nó. Và nó đã làm chúng trở nên tồi tệ hơn!

Do đó, có hai phản ứng đối với đại dịch. Một mặt, điều cần thiết là tìm ra phương pháp chữa trị cho loại virus nhỏ bé nhưng khủng khiếp này, thứ đã khiến cả thế giới phải quỳ gối. Mặt khác, chúng ta cũng phải chữa trị một loại virut lớn hơn, tức sự bất công xã hội, bất bình đẳng về cơ hội, bị gạt ra ngoài lề xã hội và việc thiếu bảo vệ cho những người yếu nhất. Trong phản ứng kép này để chữa lành, có một lựa chọn mà theo Tin Mừng, không thể nào thiếu được: đó là ưu tiên chọn người nghèo (xem Tông huấn Evangelii gaudium [EG], 195). Và đây không phải là một lựa chọn chính trị; cũng không phải là một lựa chọn ý thức hệ, một lựa chọn đảng phái… không. Ưu tiên chọn người nghèo nằm ở tâm điểm Tin Mừng. Và người đầu tiên làm điều này là Chúa Giêsu; chúng ta đã nghe điều này trong Thư gửi tín hữu Côrintô được đọc lúc khởi đầu. Vì Người giàu có, nhưng Người đã làm cho chính Người trở nên nghèo khó để làm cho chúng ta trở nên giàu có. Người đã biến chính Người thành một người trong chúng ta và vì lý do này, ở tâm điểm Tin Mừng, ở tâm điểm việc công bố của Chúa Giêsu, có sự lựa chọn này.

Chính Chúa Kitô, Đấng là Thiên Chúa, đã tự tước bỏ Người, biến Mình trở nên tương tự như loài người; và Người không chọn một cuộc sống đặc ân, nhưng Người chọn thân phận một tôi tớ (x. Pl 2: 6-7). Người tự hủy chính Người bằng cách biến Mình thành một tôi tớ.

Người sinh ra trong một gia đình khiêm tốn và làm nghề thủ công. Khi bắt đầu rao giảng, Người đã loan báo rằng trong Nước Thiên Chúa, những người nghèo được chúc phúc (x. Mt 5: 3; Lc 6:20; EG, 197). Người đứng giữa những người bệnh tật, nghèo khó, bị loại trừ, cho họ thấy tình yêu thương xót của Thiên Chúa (x. Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, 2444). Và nhiều lần Người bị tuyên bố là một người dơ bẩn vì Người đã đến với những người bệnh tật, những người phong cùi… và điều này, theo luật của thời đại, vốn làm người ta ra dơ bẩn. Và Người đã chấp nhận rủi ro để được gần gũi người nghèo.

Vì thế, những người theo Chúa Giêsu được nhận diện bằng việc họ gần gũi với người nghèo, người bé mọn, người bệnh tật và bị tù đày, người bị loại trừ và bị lãng quên, người không có cơm ăn áo mặc (x. Mt 25: 31-36; Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, 2443). Chúng ta có thể đọc giao thức nổi tiếng ấy mà theo đó, tất cả chúng ta sẽ bị phán xét, tất cả chúng ta không trừ ai. Đó là Tin Mừng Mátthêu, chương 25. Đó là tiêu chuẩn chủ chốt chứng thực tính chân chính của Kitô hữu (xem Gl 2:10; EG, 195). Một số người lầm tưởng nghĩ rằng tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo này là trách vụ dành cho một số ít người, nhưng thực ra, đó là sứ mệnh của toàn thể Giáo hội nói chung, như Thánh Gioan Phaolô II đã nói (xem Thánh Gioan Phaolô II, Sollicitudo rei socialis, 42). “Mỗi cá nhân Kitô hữu và mọi cộng đồng được kêu gọi trở thành khí cụ của Thiên Chúa để giải phóng và thăng tiến xã hội nghèo khó” (EG, 187).

Đức tin, đức cậy và đức mến nhất thiết thúc đẩy chúng ta hướng tới việc ưa thích này đối với những người thiếu thốn nhất, một sự ưa thích vượt quá sự trợ giúp cần thiết (xem EG, 198). Thật vậy, nó ngụ hàm việc cùng nhau bước đi, để chúng ta được họ truyền bá Tin Mừng, những người vốn biết rõ sự đau khổ của Chúa Kitô, để chúng ta bị “lây nhiễm” bởi kinh nghiệm cứu độ, bởi sự khôn ngoan và sự sáng tạo của họ (xem đd). Chia sẻ với người nghèo nghĩa là cùng làm giàu lẫn nhau. Và, nếu có những cơ cấu xã hội không lành mạnh ngăn cản họ mơ về tương lai, thì chúng ta phải cùng nhau làm việc để chữa lành chúng, để thay đổi chúng (xem đd, 195). Và chúng ta được dẫn đến điều này bởi tình yêu Chúa Kitô, Đấng đã yêu thương chúng ta cho đến cùng (x. Ga 13: 1), và đạt tới những ranh giới, những biên tế, những tuyến đầu của hiện sinh. Đưa những vùng ngoại vi vào trung tâm có nghĩa là tập chú đời sống ta vào Chúa Kitô, Đấng đã “làm nghèo chính mình Người” vì chúng ta, để làm giàu cho chúng ta “bằng sự nghèo khó của Người” (2Cr 8: 9), như chúng ta đã nghe.

Tất cả chúng ta đều lo lắng về những hậu quả xã hội của đại dịch. Tất cả chúng ta. Nhiều người muốn trở lại trạng thái bình thường và tiếp tục các hoạt động kinh tế. Chắc chắn là như tế, nhưng “trạng thái bình thường” này không nên bao gồm các bất công xã hội và sự suy thoái của môi trường. Đại dịch là một cuộc khủng hoảng, và chúng ta không thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng giống như trước đây: hoặc chúng ta thoát ra khỏi nó tốt hơn, hoặc chúng ta thoát ra khỏi nó tồi tệ hơn. Chúng ta phải thoát khỏi nó tốt hơn, để chống lại bất công xã hội và hủy hoại môi trường. Ngày nay, chúng ta có cơ hội xây dựng một điều gì đó khác hơn. Thí dụ, chúng ta có thể nuôi dưỡng một nền kinh tế phát triển toàn diện cho người nghèo, chứ không chỉ hỗ trợ họ. Qua điều này, tôi không muốn lên án sự hỗ trợ: trợ giúp luôn là điều quan trọng. Tôi nghĩ tới lĩnh vực tình nguyện, là một trong những cơ cấu tốt nhất của Giáo hội Ý. Vâng, hỗ trợ đang thực hiện điều này, nhưng chúng ta phải vượt quá điều này, để giải quyết các vấn đề khiến chúng ta phải cung cấp sự hỗ trợ. Một nền kinh tế không cần phải dùng tới các biện pháp khắc phục mà thực tế là đầu độc xã hội, chẳng hạn như lợi nhuận không liên kết với việc tạo ra các công việc tôn trọng nhân phẩm (xem EG, 204). Loại lợi nhuận này tách biệt khỏi nền kinh tế có thực chất, một nền kinh tế sẽ mang lại lợi ích cho người dân thường (xem Thông điệp Laudato si’ [LS], 109), và ngoài ra, đôi khi còn thờ ơ với những thiệt hại gây ra cho ngôi nhà chung của chúng ta. Ưu tiên chọn người nghèo, nhu cầu đạo đức – xã hội xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa này (xem LS, 158), truyền cảm hứng cho chúng ta trong việc quan niệm và thiết kế một nền kinh tế trong đó, mọi người, nhất là những người nghèo nhất, nằm ở trung tâm. Và nó cũng khuyến khích chúng ta lập kế hoạch điều trị virút bằng cách dành ưu tiên cho những người thiếu thốn nhất. Quả là đáng buồn nếu, đối với vắcxin ngừa Covid-19, ưu tiên được dành cho những người giàu có nhất! Quả là đáng buồn nếu vắcxin này trở thành tài sản của quốc gia này hay quốc gia nọ, thay vì phổ biến và dành cho mọi người. Và quả là một tai tiếng nếu tất cả các khoản hỗ trợ kinh tế mà chúng ta đang quan sát – hầu hết là bằng tiền công – đều tập trung vào việc giải cứu những ngành kỹ nghệ không góp phần vào việc bao gồm những người bị loại trừ, cổ vũ những người bé nhỏ nhất, thiện ích chung hoặc việc chăm sóc sáng thế (đd). Có những tiêu chuẩn để lựa chọn ngành kỹ nghệ nào cần được giúp đỡ: những ngành góp phần vào việc bao gồm những người bị loại trừ, cổ vũ những người bé nhỏ nhất, thiện ích chung hoặc việc chăm sóc sáng thế. Bốn tiêu chuẩn tất cả.

Nếu virút bùng phát mạnh mẽ trở lại trong một thế giới bất công với người nghèo và người dễ bị tổn thương, thì chúng ta phải thay đổi thế giới này. Theo gương Chúa Giêsu, vị thầy thuốc của tình yêu thần thiêng toàn diện, nghĩa là chữa lành thể xác, xã hội và tâm linh (x. Ga 5: 6-9) – giống như việc chữa lành của Chúa Giêsu – chúng ta phải hành động ngay bây giờ, để chữa lành các bệnh dịch gây ra bởi những virút nhỏ, vô hình, và để chữa lành những bệnh dịch gây ra bởi các bất công xã hội to lớn và hữu hình. Tôi đề nghị làm điều này bằng cách khởi đi từ tình yêu Thiên Chúa, đặt các vùng ngoại vi ở trung tâm và người cuối hết lên làm người trước nhất. Đừng quên giao thức ấy mà căn cứ vào đó, chúng ta sẽ bị phán xét, Mátthêu, chương 25. Chúng ta hãy đem nó ra thực hành khi sống thoát cơn dịch bệnh này. Và khởi từ tình yêu hữu hình này – như Tin Mừng nói, – bám chặt vào đức cậy và đặt nền tảng trong đức tin, một thế giới lành mạnh hơn sẽ là điều có thể. Nếu không, chúng ta sẽ tồi tệ hơn sau cuộc khủng hoảng này. Cầu xin Chúa giúp chúng ta và ban cho chúng ta sức mạnh để vượt qua nó tốt hơn, đáp ứng các nhu cầu của thế giới ngày nay. Cám ơn anh chị em.

Bài giáo lý thứ tư của Đức Phanxicô về chữa lành thế giới: chúng ta là quản lý viên được kêu gọi chia sẻ hoa quả trái đất với mọi người

Vũ Văn An
26/Aug/2020

Theo VaticanNews, trong buổi yết kiến chung thứ Tư, 26 tháng 8, Đức Phanxicô đã chú tâm vào tầm quan trọng của bình đẳng và chia sẻ của cải nhằm phản ảnh tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta và Sáng Thế trong thời gian thử thách do đại dịch gây ra.

Đức Thánh Cha Phanxicô mở đầu bài giáo lý của ngài bằng cách mời gọi tín hữu “chào đón hồng phúc đức cậy vốn phát xuất từ Chúa Kitô”, nhất là trong mùa đại dịch, khi “nhiều người liều mình đánh mất đức cậy”, do các bất công xã hội.

Ngài nói các bất công trên được cơn đại dịch làm “nổi bật và gia trọng”. Nhiều trẻ em không còn khả năng nhận được nền giáo dục thỏa đáng trong khi nhiều em khác nhận được; nhiều người không có khả năng làm việc tại nhà, nhiều người khác thì có; nhiều quốc gia không thể phát hành tiền để đương đầu với tình thế khẩn trương mà không gây hại cho tương lai tài chánh của mình, trong khi các quốc gia khác thì có thể.

Bài giáo lý thứ tư của Đức Phanxicô theo bản dịch tiếng Anh của ZenitNews:

Anh chị em thân mến, chúc anh chị em buổi sáng tốt đẹp!

Trước đại dịch và các hậu quả xã hội của nó, nhiều người có nguy cơ mất đức cậy. Trong thời gian bất trắc và đau khổ này, tôi mời mọi người chào đón hồng phúc đức cậy vốn phát xuất từ Chúa Kitô. Chính Người giúp chúng ta lèo lái qua dòng nước hỗn loạn của bệnh tật, chết chóc và bất công, vốn không có lời nói cuối cùng đối với vận mệnh sau cùng của chúng ta.

Đại dịch đã phơi bày và làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội, trên hết là vấn đề bất bình đẳng. Một số người có thể làm việc tại nhà, trong khi kiểu làm việc này không thể có đối với nhiều người khác. Một số trẻ em, bất kể các khó khăn có liên quan, vẫn có thể tiếp tục nhận được nền giáo dục học thuật, trong khi điều này đã bị gián đoạn đột ngột đối với nhiều, rất nhiều, trẻ em khác. Một số quốc gia hùng mạnh có thể phát hành tiền để đối phó với khủng hoảng, trong khi điều này, đối với nhiều nước khác, có nghĩa là phải thế chấp tương lai.

Những triệu chứng của sự bất bình đẳng trên cho thấy một căn bệnh xã hội; nó là một loại virus phát xuất từ một nền kinh tế bệnh hoạn. Và chúng ta phải nói một cách đơn giản: nó là một nền kinh tế đang mắc bệnh. Nó đã mắc bệnh. Nó đang mắc bệnh. Đó là hậu quả của một việc tăng trưởng kinh tế bất bình đẳng – căn bệnh đó như thế đó: nó là hậu quả của tăng trưởng kinh tế bất bình đẳng – coi thường các giá trị căn bản của con người. Trong thế giới ngày nay, một số ít người giàu có sở hữu nhiều hơn tất cả phần còn lại của nhân loại. Tôi xin lặp lại điều này để nó giúp chúng ta suy nghĩ: một số ít người giàu có, chỉ một nhóm nhỏ thôi, đang sở hữu nhiều hơn tất cả những người còn lại của nhân loại.

Đấy là số liệu thống kê thuần túy. Đấy là một sự bất công kêu thấu tới trời! Đồng thời, mô hình kinh tế này thờ ơ với những thiệt hại gây ra cho ngôi nhà chung của chúng ta. Ngôi nhà chung của chúng ta không được quan tâm chăm sóc.

Chúng ta sắp vượt quá nhiều giới hạn của hành tinh tuyệt vời của chúng ta, với những hậu quả nghiêm trọng và không thể đảo ngược được: từ việc mất tính đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu đến mực nước biển dâng cao và rừng nhiệt đới bị tàn phá. Bất bình đẳng xã hội và suy thoái môi trường đi đôi với nhau và có cùng một nguồn gốc (xem Thông điệp Laudato Si’, 101): tội muốn chiếm hữu và muốn thống trị anh chị em của mình, muốn chiếm hữu và thống trị thiên nhiên và chính Thiên Chúa. Nhưng đấy không phải là thiết kế dành cho tạo thế.

“Khởi thủy, Thiên Chúa trao phó trái đất và các tài nguyên của nó cho nhân loại quản lý chung để chăm sóc chúng” (Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, 2402). Thiên Chúa kêu gọi chúng ta nhân danh Người thống trị trái đất (xin xem St 1:28), cày cấy và bảo tồn nó như một khu vườn, một khu vườn dành cho mọi người (xin xem St 2:15). “‘cày cấy’ là trồng trọt, cày bừa hoặc làm việc, trong khi ‘bảo tồn’ có nghĩa là chăm sóc, bảo vệ, coi đây như là một môn bài trắng xóa (carte blanche) để làm bất cứ điều gì bạn muốn với trái đất. Không phải thế. Có “mối tương quan trách nhiệm hỗ tương” (đã dẫn) giữa chúng ta và thiên nhiên. Mối tương quan trách nhiệm hỗ tương giữa chúng ta và thiên nhiên. Chúng ta nhận được từ sáng thế và chúng ta phải đáp trả trở lại. “Mỗi cộng đồng có thể lấy từ sự hào phóng của trái đất bất cứ thứ gì họ cần để sống còn, nhưng họ cũng có nhiệm vụ bảo vệ trái đất” (đã dẫn). Một con đường hai chiều.

Thực vậy, trái đất “đã ở đây trước chúng ta và nó đã được ban cho chúng ta” (đã dẫn), nó đã được Thiên Chúa ban cho “toàn thể loài người” (Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, 2402). Và do đó, bổn phận của chúng ta là bảo đảm để hoa trái của nó đến được với mọi người, không phải chỉ một số ít người. Và đây là yếu tố then chốt trong mối tương quan của chúng ta với các của cải trên trái đất. Như các Nghị phụ của Công đồng Vatican II đã nhắc lại, các ngài nói: “Con người nên coi những thứ bên ngoài mà mình sở hữu một cách hợp pháp không những như của riêng mình mà còn là của chung theo nghĩa chúng có thể mang lại lợi ích không chỉ cho mình mà còn cho những người khác” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes, 69). Thực thế, “Quyền sở hữu bất cứ tài sản nào làm cho người nắm giữ tài sản đó trở thành người quản lý của Chúa Quan Phòng, với nhiệm vụ làm cho tài sản đó trở nên sinh hoa trái và truyền đạt lợi ích của nó cho người khác” (Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, 2404). Chúng ta là người quản lý hàng hóa, không phải chủ nhân ông.
Các nhà quản trị. “Đúng, nhưng điều tốt là của tôi”: điều đó đúng, nó là của bạn, nhưng hãy quản lý nó, đừng chiếm hữu nó một cách ích kỷ cho riêng mình bạn.

Để bảo đảm những gì chúng ta sở hữu mang lại giá trị cho cộng đồng, “thẩm quyền chính trị có quyền và nghĩa vụ qui định việc thực thi hợp pháp quyền sở hữu vì thiện ích chung” (Đã dẫn, 2406) [1]. “Việc bắt quyền tư hữu phụ thuộc nơi đến phổ quát của hàng hóa, […] là luật vàng của tác phong xã hội và là nguyên tắc đầu tiên của toàn bộ trật tự xã hội và đạo đức” (Laudato Si’, 93) [2].

Tài sản và tiền bạc là những công cụ có thể phục vụ cho việc truyền giáo. Tuy nhiên, chúng ta dễ dàng biến chúng thành mục đích, bất luận là cá nhân hay tập thể. Và khi điều này xảy ra, các giá trị thiết yếu của con người bị ảnh hưởng.

Loài hiểu biết (Homo sapiens) bị biến dạng và trở thành loài kinh tế (homo œconomicus) – theo nghĩa có hại – một loài người theo chủ nghĩa cá nhân, tính toán và độc đoán. Chúng ta quên rằng, được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa, chúng ta là những sinh vật xã hội, sáng tạo và liên đới với khả năng yêu thương vô bờ bến.

Chúng ta thường quên điều đó. Thực thế, trong tất cả các loài, chúng ta là những sinh vật biết hợp tác nhất và chúng ta phát triển trong cộng đồng, như được thấy rõ trong kinh nghiệm các thánh. Có một câu nói trong tiếng Tây Ban Nha từng truyền cảm hứng cho tôi để viết cụm từ này. Câu đó nói: “Florecemos en racimo, como los santos”: chúng ta phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng, như được thấy rõ trong kinh nghiệm của các thánh [3].

Khi nỗi ám ảnh chiếm hữu và thống trị loại bỏ hàng triệu người khỏi có được hàng hóa đệ nhất đẳng; khi sự bất bình đẳng về kinh tế và kỹ thuật tiến tới mức làm cho cơ cấu xã hội bị xé nát; và khi sự phụ thuộc vào tiến bộ vật chất vô giới hạn đe dọa ngôi nhà chung của chúng ta, thì chúng ta không thể khoanh tay đứng nhìn. Không, điều này thật đáng buồn. Chúng ta không thể khoanh tay đứng nhìn! Với cái nhìn chăm chú của chúng ta vào Chúa Giêsu (xem Dt 12: 2) và với sự chắc chắn rằng tình yêu của Người hành động qua cộng đồng các môn đệ của Người, chúng ta phải cùng nhau hành động, với hy vọng tạo ra điều gì đó khác hơn và tốt đẹp hơn. Đức cậy Kitô giáo, bắt nguồn từ Thiên Chúa, là mỏ neo của chúng ta. Nó thúc đẩy ý chí chia sẻ, củng cố sứ mệnh của chúng ta trong tư cách môn đệ của Chúa Kitô, Đấng đã chia sẻ mọi sự với chúng ta.

Các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi đã hiểu rõ điều này. Họ sống những thời kỳ khó khăn, giống như chúng ta. Nhận thức mình tạo thành một trái tim và một linh hồn, họ đặt tất cả của cải của họ làm của chung, làm chứng cho ân sủng dồi dào của Chúa Giêsu Kitô ở trong họ (xin xem Cv 4: 32-35). Chúng ta đang trải qua một cuộc khủng hoảng. Đại dịch đã khiến tất cả chúng ta rơi vào khủng hoảng. Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng sau một cuộc khủng hoảng, người ta sẽ không còn giống y như trước nữa. Chúng ta thoát khỏi nó tốt hơn, hoặc chúng ta thoát khỏi nó tệ hơn. Tùy chúng ta lựa chọn.

Sau cuộc khủng hoảng, liệu chúng ta có tiếp tục với hệ thống kinh tế bất công xã hội và đánh giá thấp sự quan tâm dành cho môi trường, cho sáng thế, cho ngôi nhà chung của chúng ta không? Chúng ta hãy suy nghĩ về điều này. Mong các cộng đồng Kitô hữu của thế kỷ XXI phục hồi thực tại này – quan tâm đến sự sáng thế và công bằng xã hội: chúng đi đôi với nhau… – nhờ thế làm chứng cho sự Phục sinh của Chúa. Nếu chúng ta chăm sóc các của cải mà Đấng Hóa Công đã ban tặng cho chúng ta, nếu chúng ta đặt những gì chúng ta sở hữu làm của chung một cách để không ai bị thiếu chúng, thì chúng ta sẽ thực sự gây hứng để đức cậy tái tạo một thế giới lành mạnh và bình đẳng hơn. Và để kết luận, chúng ta hãy nghĩ đến những đứa trẻ. Hãy đọc số liệu thống kê: biết bao trẻ em ngày nay đang chết đói vì sự phân bổ của cải không tốt, vì hệ thống kinh tế, như tôi đã nói ở trên; và biết bao trẻ em ngày nay không được quyền học hành vì cùng y một lý do.
Mong rằng hình ảnh về những đứa trẻ bị đói khát và thiếu học này giúp chúng ta hiểu rằng sau cuộc khủng hoảng này, chúng ta phải thoát ra khỏi nó tốt hơn. Cảm ơn anh chị em.
______________________
[1] Xem GS, 71; Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 42; Thông điệp Centesimus annus, 40, 48).
[2] Xem Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem exercens, 19.
[3] “Florecemos en racimo, como los santos” (chúng ta phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng, như được thấy rõ trong kinh nghiệm của các thánh): một câu phát biểu phổ biến trong tiếng Tây Ban Nha.

Bài Giáo Lý Thứ Năm về Chữa Lành Thế giới của Đức Phanxicô, trước các tín hữu hân hoan được yết kiến ngài trở lại

Vũ Văn An
02/Sep/2020

Buổi yết kiến có tín hữu tham dự tại Sân San Damaso, bên trong Điện Vatican, đã diễn ra lúc 9 giờ 30 sáng ngày 2 tháng 9, tuy những người mộ mến Đức Phanxicô đã có mặt từ lúc 7 giờ 30. Theo hãng tin Zenit, Sân Damaso chứa tối đa được chừng 500 người và người ta có thể vào đó từ Cửa Đồng phía tay phải của Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô. Buổi yết kiến dành cho mọi người, không cần có vé trước, nhưng phải nghiêm ngặt tôn trọng các qui định gián cách và vệ sinh cũng như chịu đo nhiệt độ ở địa điểm kiểm soát an ninh.

Hôm nay, theo Zenit, Đức Thánh Cha tiếp nhận được một cuộc nghinh đón đầm ấm và dù giữ khoảng cách, ngài vẫn dành thì giờ đến chào một số tín hữu muốn gặp ngài.

Trong bài giáo lý sau đó, Đức Thánh Cha nói rằng sống qua cơn đại dịch hiện nay, chúng ta tiến đến chỗ nhận ra rằng chúng ta hết sức lệ thuộc lẫn nhau, nên ta phải biểu lộ tình liên đới với nhau, vì tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa dựng nên và cùng chia sẻ ngôi nhà chung.

Ngài cho rằng tình liên đới chân chính không hẳn chỉ là cung ứng sự giúp đỡ cho người khác, mà nó còn là vấn đề công lý nữa, đòi “một sự thay đổi triệt để trong lối suy nghĩ của ta, một lối suy nghĩ biết nhìn tới thiện ích của cộng đồng, bảo vệ quyền sống cho mọi người, và cổ vũ việc chia sẻ công bằng các của cải của trái đất”.

Dưới đây là nguyên văn bài giáo lý, dựa vào bản tiếng Anh không chính thức của Vatican do Zenit phổ biến:

***
Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Sau nhiều tháng, chúng ta lại gặp lại nhau mặt đối mặt chứ không phải đối với màn hình. Mặt đối mặt. Điều này thật tốt! Đại dịch hiện thời làm nổi bật sự liên lập của chúng ta: tất cả chúng ta đều được liên kết với nhau, dù tốt hay xấu. Vì vậy, để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng này tốt hơn trước đây, chúng ta phải làm như vậy cùng với nhau; cùng với nhau, không một mình. Cùng với nhau. Một mình, không, bởi vì nó không thể thực hiện được. Hoặc nó được thực hiện cùng với nhau, hoặc nó không được thực hiện. Chúng ta phải làm điều đó cùng với nhau, tất cả chúng ta, trong tình liên đới. Hôm nay tôi xin gạch dưới hạn từ này: liên đới.

Là một gia đình nhân loại, chúng ta có nguồn gốc chung của chúng ta nơi Thiên Chúa; chúng ta cư ngụ trong ngôi nhà chung, vườn-hành-tinh, trái đất nơi Chúa đặt chúng ta vào; và chúng ta có một điểm đến chung trong Chúa Kitô. Nhưng khi chúng ta quên tất cả những điều này, sự phụ thuộc qua lại của chúng ta trở thành sự phụ thuộc của một số người vào những người khác, chúng ta mất đi sự hài hòa của liên lập và liên đới và chúng ta trở nên phụ thuộc – sự phụ thuộc của một số người vào một số ít, vào những người khác – làm gia tăng sự bất bình đẳng và bị gạt ra ngoài lề xã hội; nó làm suy yếu cấu trúc xã hội và làm môi trường xấu đi. Nó luôn luôn là như thế. Hành động cùng một cách như vậy.

Do đó, nguyên tắc liên đới lúc này cần thiết hơn bao giờ hết, như Thánh Gioan Phaolô II đã dạy (xem Sollicitudo rei socialis, 38-40). Trong một thế giới liên kết qua lại với nhau, chúng ta cảm nghiệm được việc sống trong cùng một “ngôi làng hoàn cầu” có nghĩa gì; kiểu nói này thật đẹp, không phải sao? Thế giới rộng lớn không là gì khác hơn một ngôi làng hoàn cầu, bởi vì mọi sự đều được nối kết qua lại với nhau, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng biến sự liên lập này thành tình liên đới. Có một hành trình dài giữa sự liên lập và tình liên đới. Tính ích kỷ – cá nhân, quốc gia và các nhóm quyền lực – và sự cứng ngắc về ý thức hệ thay vào đó đã duy trì “các cơ cấu tội lỗi” (Đã dẫn, 36).

“ Hạn từ ‘liên đới’hơi bị sáo mòn và đôi khi ít được hiểu biết, nhưng nó ám chỉ điều gì đó hơn là một vài hành động lẻ tẻ – hành động lẻ tẻ đây đó – của lòng rộng lượng”. Nhiều hơn thế! “Nó giả định việc tạo ra một tư duy mới; một tư duy mới biết suy nghĩ theo hướng cộng đồng và dành ưu tiên cho sự sống của mọi người hơn là cho việc chiếm đoạt của cải nơi một số ít người” (Tông huấn Evangelii gaudium, 188). Đó là điều “liên đới” muốn nói. Nó không đơn thuần là việc giúp đỡ người khác – làm như vậy là tốt, nhưng nó còn hơn thế nữa – nó là vấn đề công lý (xem Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, 1938-1949). Sự liên lập, muốn ở trong tình liên đới và sinh hoa trái, cần có cội rễ bền chặt trong nhân tính và thiên nhiên do Thiên Chúa dựng nên; nó cần tôn trọng các khuôn mặt và đất đai.

Kinh thánh, ngay từ đầu, đã cảnh cáo chúng ta về điều này. Hãy nghĩ đến câu chuyện về Tháp Babel (xem St 11: 1-9); câu chuyện này mô tả những gì xảy ra khi chúng ta cố gắng vươn tới trời- tức là đích đến của chúng ta – mà bỏ qua mối ràng buộc của chúng ta với nhân loại, tạo thế và Đấng Tạo Hóa. Đây là một kiểu nói văn hoa. Điều này xảy ra bất cứ khi nào ai đó muốn leo lên và leo lên mà không lưu ý gì tới người khác. Chỉ bản thân tôi, phải không? Hãy nghĩ tới ngọn tháp. Chúng ta đang xây những ngọn tháp và các tòa nhà chọc trời, nhưng chúng ta đang phá hủy cộng đồng. Chúng ta thống nhất các tòa nhà và ngôn ngữ, nhưng chúng ta bóp chết tính phong phú của văn hóa. Chúng ta muốn trở thành chủ nhân của Trái đất, nhưng chúng ta lại hủy hoại sự đa dạng sinh học và cân bằng sinh thái. Trong một buổi yết kiến khác, tôi đã nói về những ngư dân phát xuất từ San Benedetto del Tronto, những người từng đến đây năm nay, và họ nói với tôi rằng năm nay: “Chúng con đã vớt 24 tấn chất thải khỏi biển, một nửa trong số đó là chất nhựa”. Hãy nghĩ đến việc những người này có nhiệm vụ bắt cá – vâng – nhưng cũng từ chối, và ra khơi để làm sạch biển. Nhưng đây là việc hủy hoại trái đất – không có tình liên đới với trái đất, vốn là một hồng phúc – và sự cân bằng sinh thái.

Tôi nhớ một câu chuyện thời trung cổ về “hội chứng Babel”, xảy ra khi không có tinh thần liên đới. Câu chuyện thời Trung cổ này nói rằng, trong lúc xây dựng ngọn tháp, khi một người đàn ông ngã xuống – họ là nô lệ, không phải sao? – và chết, không ai nói gì, hoặc cùng lắm, “Thật tội nghiệp, anh ta đã phạm sai lầm và anh ta bị ngã”. Thay vào đó, nếu một viên gạch rơi xuống, mọi người đều phàn nàn. Và nếu ai đó bị qui lỗi, anh ta sẽ bị trừng phạt. Tại sao? Bởi vì một viên gạch tốn kém để làm, chuẩn bị, nung… Tất cả những điều như thế. Phải mất thời gian để sản xuất một viên gạch, và việc làm. Một viên gạch đáng giá hơn một mạng người. Mỗi chúng ta, hãy nghĩ tới những gì xảy ra ngày hôm nay.

Thật không may, một điều gì đó thuộc loại này cũng có thể xảy ra ngày nay. Khi cổ phiếu giảm giá trên thị trường tài chánh, tất cả các cơ quan đều báo cáo tin tức – chúng ta đã thấy nó trên các tờ báo trong những ngày này. Hàng ngàn người gục ngã vì đói và nghèo, nhưng không ai nói về điều đó.

Lễ Ngũ tuần hoàn toàn trái ngược với Tháp Babel (xin xem Công vụ 2: 1-3), chúng ta đã nghe ở phần đầu của buổi yết kiến. Chúa Thánh Thần, từ trên cao ngự xuống như gió và lửa, lướt trên cộng đoàn đang co cụm trong Nhà Tiệc Ly, truyền sức mạnh của Thiên Chúa cho họ, và thôi thúc họ ra đi loan báo Chúa Giêsu cho mọi người. Thần Khí tạo ra sự hợp nhất trong đa dạng; Người tạo ra sự hài hòa.

Trong câu chuyện Tháp Babel, không có sự hài hòa nào; chỉ thôi thúc tiến lên để kiếm tiền. Ở đó, những người khác chỉ đơn giản là dụng cụ, chỉ là “nhân lực”, nhưng ở đây, trong Lễ Ngũ Tuần, mỗi người chúng ta là một công cụ, nhưng là một công cụ cộng đồng tham gia đầy đủ vào việc xây dựng cộng đồng. Thánh Phanxicô Assisi biết rõ điều này, và được Thần Khí linh ứng, ngài đã gọi mọi người, thực sự mọi tạo vật, là anh chị em (xin xem Laudato Si’ 11; xin xem LS 11; xem Thánh Bonaventure, Legenda maior, VIII, 6: FF 1145). Thâm chí, anh sói, hãy nhớ điều đó. Với Lễ Ngũ Tuần, Thiên Chúa làm cho chính Người hiện diện và soi dẫn đức tin của cộng đồng hợp nhất trong đa dạng và liên đới. Sự đa dạng và liên đới hợp nhất trong hài hòa, đó mới là cách.

Sự đa dạng trong liên đới sở hữu nhiều “kháng thể” bảo đảm rằng tính độc đáo của mỗi con người – vốn là một hồng phúc, độc đáo và không thể lặp lại được – không bị chủ nghĩa duy cá nhân, tính ích kỷ làm cho bệnh hoạn. Sự đa dạng trong liên đới cũng sở hữu các kháng thể có thể hàn gắn các cơ cấu và diễn trình xã hội từng thoái hóa trở thành các hệ thống bất công, các hệ thống áp bức (xem Bản Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội, 192). Do đó, liên đới ngày nay là con đường phải đi hướng tới một thế giới hậu đại dịch, hướng tới việc chữa lành những căn bệnh xã hội và liên ngã của chúng ta. Không có con đường nào khác. Hoặc là chúng ta cùng đi trên con đường liên đới, hoặc là mọi sự sẽ trở nên tồi tệ hơn. Tôi muốn nhắc lại điều này: người ta sẽ không thoát ra khỏi một cuộc khủng hoảng mà vẫn y như trước đây. Đại dịch là một cuộc khủng hoảng. Chúng ta thoát khỏi khủng hoảng một là tốt hơn hai là tệ hơn trước. Tùy ý chúng ta lựa chọn. Và liên đới thực sự là một cách để thoát khỏi khủng hoảng mà được tốt hơn, chứ không phải bằng những thay đổi phiến diện, với một lớp sơn mới để mọi thứ trông đều ổn. Không. Phải tốt hơn!

Giữa những cuộc khủng hoảng, tình liên đới được đức tin hướng dẫn cho phép chúng ta chuyển dịch tình yêu của Thiên Chúa trong nền văn hóa hoàn cầu hóa của chúng ta, không phải bằng cách xây các ngọn tháp hay bức tường – và ngày nay có biết bao bức tường đang được xây lên! – để chia rẽ, nhưng rồi sụp đổ, nhưng bằng cách dệt nối các cộng đồng và duy trì các diễn trình phát triển thực sự nhân bản và bền vững. Và để làm điều này, sự vững chắc sẽ giúp ích. Tôi muốn hỏi một câu hỏi: tôi có nghĩ đến nhu cầu của người khác không? Mọi người hãy trả lời trong trái tim mình.

Giữa những cuộc khủng hoảng và sóng bão, Chúa kêu gọi chúng ta và mời gọi chúng ta đánh thức và kích hoạt tình liên đới có khả năng mang lại sự vững chắc, nâng đỡ và ý nghĩa cho những giờ phút trong đó mọi sự dường như đang bị phá hủy. Cầu xin tính sáng tạo của Chúa Thánh Thần khuyến khích chúng ta tạo ra những hình thức mới của lòng hiếu khách quen thuộc, của tình huynh đệ sinh hoa trái và của tình liên đới phổ quát. Cảm ơn anh chị em.


Bài Giáo Lý thứ Sáu về Chữa lành thế giới của Đức Phanxicô: Kitô hữu đáp ứng đại dịch bằng tình yêu

Vũ Văn An
09/Sep/2020

Sau đây là Bài Giáo Lý thứ Sáu về Chữa lành thế giới của Đức Phanxicô, được ngài ban bố trong buổi yết kiến chung hàng tuần vào thứ Tư, ngày 9 tháng 9 năm 2020, tuần thứ hai kể từ ngày đại dịch bùng phát, trong đó, có sự hiện diện đông đảo và hân hoan của tín hữu tại Sân San Damaso bên trong Tông Điện Vatican.

Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!

Cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang sống do đại dịch gây ra đang ảnh hưởng đến mọi người; chúng ta sẽ thoát khỏi nó để tốt hơn nếu tất cả chúng ta cùng tìm kiếm thiện ích chung với nhau; ngược lại, chúng ta sẽ thoát khỏi nó để tồi tệ hơn. Thật không may, chúng ta thấy nhiều lợi ích đảng phái đang xuất đầu lộ diện. Thí dụ, một số người muốn đưa ra các giải pháp khả thi thích hợp cho chính họ, như trong trường hợp vắc xin, để rồi bán chúng cho người khác. Một số người đang lợi dụng tình hình để xúi giục chia rẽ: bằng cách tìm kiếm các lợi thế kinh tế hoặc chính trị, tạo ra hoặc làm trầm trọng thêm các xung đột. Những người khác đơn giản không lưu ý chi tới nỗi đau khổ của người khác, họ bước qua và theo con đường riêng của họ (xem Lc 10: 30-32). Họ là những người sùng kính Phôngxiô Philatô, rửa tay khỏi đau khổ của người khác.

Đáp ứng của Kitô hữu đối với đại dịch và cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội do đó mà có đặt căn bản trên tình yêu, trên hết, là tình yêu Thiên Chúa, Đấng luôn đi trước chúng ta (x. 1Ga 4:19). Người yêu chúng ta trước, Người luôn đi trước chúng ta trong tình yêu và các giải pháp. Người yêu chúng ta vô điều kiện và khi chúng ta chào đón tình yêu thần thiêng này, chúng ta cũng biết đáp ứng tương tự. Tôi không chỉ yêu những người yêu tôi – gia đình tôi, bạn bè tôi, nhóm của tôi – mà tôi còn yêu những người không yêu tôi, tôi cũng yêu những người không biết tôi hoặc những người xa lạ, và cả những người làm tôi đau khổ. hoặc người mà tôi coi là kẻ thù (xem Mt 5:44). Đó là sự khôn ngoan của Kitô hữu, đó là cách Chúa Giêsu đã hành động. Và điểm cao nhất của sự thánh thiện, ta hãy nói như thế, là yêu các kẻ thù của mình, một điều không dễ dàng, không dễ dàng chút nào. Chắc chắn, yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù, là điều rất khó – tôi có thể nói rằng nó thậm chí còn là một nghệ thuật! Nhưng ta có thể học và cải thiện một nghệ thuật. Tình yêu đích thực, tức tình yêu khiến chúng ta sinh hoa kết trái và tự do, luôn luôn có tính mở rộng, và tình yêu đích thực không chỉ có tính mở rộng mà thôi, nó còn có tính bao gồm nữa. Tình yêu này biết quan tâm, chữa lành và làm điều tốt. Biết bao nhiêu lần một cái vuốt ve còn tốt hơn nhiều lý lẽ tranh luận, một cái vuốt ve, có thể nói, để tha thứ thay vì nhiều luận điểm để bảo vệ chính mình. Chính tình yêu có tính bao gồm chữa lành ta.

Vì vậy, tình yêu không chỉ giới hạn vào mối tương quan giữa hai hoặc ba người, vào bạn bè hay vào gia đình, mà nó còn vượt ra ngoài. Nó bao gồm các mối tương quan dân sự và chính trị (xem Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo [CCC], 1907-1912), gồm cả mối tương quan với thiên nhiên (xem Thông điệp Laudato Si’[LS], 231). Tình yêu có tính bao gồm, bao gồm mọi sự. Vì chúng ta là những hữu thể xã hội và chính trị, nên một trong những biểu thức cao nhất của tình yêu là biểu thức xã hội và chính trị, một điều có tính quyết định đối với sự phát triển của con người và để đương đầu với bất cứ loại khủng hoảng nào (đd, 231). Chúng ta biết rằng tình yêu làm cho gia đình và tình bạn thăng hoa; nhưng ta nên nhớ rằng nó cũng làm cho các mối tương quan xã hội, văn hóa, kinh tế và chính trị phát triển mạnh mẽ, cho phép chúng ta xây dựng một “nền văn minh của tình yêu”, như Thánh Phaolô VI thường nói [1] và cả Thánh Gioan Phaolô II nữa. Không có nguồn cảm hứng này, nền văn hóa vị kỷ, thờ ơ, vứt bỏ sẽ thịnh hành – nghĩa là loại bỏ bất cứ điều gì tôi không thích, bất cứ người nào tôi không thể yêu hoặc những ai đối với tôi dường như không có ích gì cho xã hội. Hôm nay ở cổng vào, một cặp vợ chồng đã nói với tôi: “xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho con (chúng con) vì chúng con có một đứa con trai bị khuyết tật”. Tôi hỏi: “cháu mấy tuổi?” “cháu khá lớn”. “Và bà làm gì?” “Chúng con tháp tùng cháu, giúp đỡ cháu”. Cả đời làm cha mẹ cho đứa con trai tàn tật đó. Đó là tình yêu. Còn các kẻ thù, những chính trị gia đối địch, theo ý kiến của chúng ta, dường như là các chính trị gia “tàn tật”, về phương diện xã hội, nhưng dường như họ là như vậy. Chỉ có Thiên Chúa mới biết liệu họ có thực sự như vậy hay không. Nhưng chúng ta phải yêu họ, chúng ta phải đối thoại, chúng ta phải xây dựng nền văn minh của tình yêu này, nền văn minh chính trị và xã hội này của sự đoàn kết toàn thể nhân loại. Mặt khác, chiến tranh, chia rẽ, đố kỵ, thậm chí các cuộc chiến tranh trong gia đình: bởi vì tình yêu có tính bao hàm là tình yêu có tính xã hội, nó có tính gia đình, nó có tính chính trị… tình yêu thấm nhiễm mọi sự.

Coronavirus đang cho chúng ta thấy rằng thiện ích thực sự của mỗi con người là thiện ích chung, không chỉ có tính cá nhân, và ngược lại, thiện ích chung là thiện ích thực sự cho con người. (xem Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo , 1905-1906). Nếu người ta chỉ tìm kiếm thiện ích của riêng mình, họ sẽ là người ích kỷ. Thay vào đó, người ta sẽ nhân từ hơn, cao thượng hơn, khi thiện ích riêng của họ được mở ra cho mọi người, khi nó được chia sẻ. Sức khỏe, ngoài việc là thiện ích cá nhân, còn là thiện ích chung. Một xã hội lành mạnh là một xã hội biết chăm sóc sức khỏe của mọi người.

Loại vi-rút nào không thừa nhận rào cản, biên giới, hoặc sự phân biệt về văn hóa hoặc chính trị phải đối diện với một tình yêu không có rào cản, không có biên giới hay sự phân biệt. Tình yêu này có thể tạo ra các cơ cấu xã hội nhằm khuyến khích chúng ta chia sẻ hơn là cạnh tranh, cho phép chúng ta bao gồm những người dễ bị tổn thương nhất và không gạt họ sang một bên, điều này giúp chúng ta biểu lộ những gì tốt đẹp nhất trong bản chất con người của chúng ta chứ không phải điều tồi tệ nhất. Tình yêu đích thực không biết đến nền văn hóa vứt bỏ, không biết nó là thế nào. Thực thế, khi chúng ta yêu thương và phát sinh ra tính sáng tạo, khi chúng ta tạo ra niềm tin và tình liên đới, thì đó là lúc các sáng kiến cụ thể xuất hiện vì thiện ích chung [2]. Và điều này có giá trị ở cả bình diện các cộng đồng nhỏ nhất lẫn lớn nhất, cũng như ở bình diện quốc tế. Những gì được thực hiện trong gia đình, những gì được thực hiện trong khu phố, những gì được thực hiện ở làng quê, những gì được thực hiện ở các thành phố lớn và quốc tế đều y như nhau, cùng là một hạt giống như nhau lớn lên, phát triển, lớn lên và đơm hoa kết trái. Nếu anh chị em trong gia đình anh chị em, trong khu phố anh chị em bắt đầu bằng sự đố kỵ, bằng những trận chiến, thì cuối cùng sẽ có chiến tranh. Thay vào đó, nếu anh chị em bắt đầu bằng tình yêu thương, biết chia sẻ yêu thương, sự tha thứ thì sẽ có tình yêu thương và sự tha thứ cho mọi người.

Ngược lại, nếu các giải pháp cho cơn đại dịch mang dấu ấn của chủ nghĩa vị kỷ, cho dù đó là của cá nhân, doanh nghiệp hay quốc gia, có lẽ chúng ta sẽ thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng coronavirus, nhưng chắc chắn không phải khỏi cuộc khủng hoảng xã hội và nhân bản mà virus đã đưa ra ánh sáng và nêu bật. Vì vậy, anh chị em hãy cẩn thận đừng xây dựng trên cát (xem Mt 7, 21-27)! Để xây dựng một xã hội lành mạnh, hòa nhập, công bằng và hòa bình, chúng ta phải làm như vậy trên nền đá thiện ích chung [3]. Công ích là một tảng đá. Và đó là nhiệm vụ của mọi người, không chỉ của một vài chuyên gia. Thánh Tôma Aquinô từng nói rằng việc cổ vũ công ích là nghĩa vụ của công lý đối với mỗi công dân. Mọi công dân đều có trách nhiệm đối với thiện ích chung. Và đối với các Kitô hữu, đó cũng là một sứ mệnh. Như Thánh Inhaxiô thành Loyola đã dạy, hướng các nỗ lực hàng ngày của chúng ta vào công ích là một cách để tiếp nhận và truyền bá vinh quang của Thiên Chúa.

Thật không may, chính trị thường không có tiếng tốt, và chúng ta biết tại sao. Điều này không có nghĩa là mọi chính trị gia đều xấu, không, tôi không muốn nói như thế. Tôi chỉ nói rằng thật không may, chính trị thường không có tiếng tốt. Tại sao? Nhưng nó không cần phải cam chịu viễn kiến tiêu cực này, nhưng thay vào đó, nó nên phản ứng bằng cách chứng tỏ bằng các việc làm rằng nền chính trị tốt là điều khả hữu, hay đúng hơn nền chính trị [4] biết đặt con người và thiện ích chung ở trung tâm là một bổn phận. Nếu anh chị em đọc lịch sử nhân loại, anh chị em sẽ tìm thấy nhiều chính trị gia thánh thiện đã đi trên con đường này. Mọi công dân, và đặc biệt là những người đảm nhận các chức vụ và cam kết xã hội và chính trị, đều có thể đặt căn bản những điều họ làm trên các nguyên tắc đạo đức và nuôi dưỡng nó bằng tình yêu xã hội và chính trị. Các Kitô hữu, đặc biệt là hàng ngũ giáo dân, được mời gọi nêu gương sáng về điều này và có thể làm được điều này nhờ nhân đức bác ái, vun sới chiều kích xã hội nội tại của nó.

Do đó, đây là lúc để cải thiện tình yêu xã hội của chúng ta – tôi muốn nhấn mạnh điều này: tình yêu xã hội của chúng ta – với sự đóng góp của mọi người, bắt đầu từ sự nhỏ bé của chúng ta. Thiện ích chung đòi hỏi sự tham gia của mọi người. Nếu tất cả mọi người đều đóng góp phần của mình và nếu không ai bị bỏ rơi, chúng ta có thể tái tạo các mối tương quan tốt đẹp ở các nình diện cộng đồng, quốc gia và quốc tế và thậm chí hài hòa với môi trường (xem LS, 236). Như vậy, qua những cử chỉ của chúng ta, ngay cả những cử chỉ khiêm tốn nhất, một điều gì đó của hình ảnh Thiên Chúa mà chúng ta mang trong mình sẽ được hiển hiện, vì Thiên Chúa là Ba Ngôi, Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa quả là tình yêu. Đây là định nghĩa đẹp đẽ nhất về Thiên Chúa trong Kinh thánh. Thánh Tông đồ Gioan, người rất yêu mến Chúa Giêsu, đã cho chúng ta điều đó. Với sự giúp đỡ của ngài, chúng ta có thể hàn gắn thế giới, bằng cách làm việc, vâng, với nhau vì thiện ích chung, vì thiện ích chung của mọi người. Cảm ơn anh chị em.

Ghi chú

[1] Thông điệp nhân Ngày Thế giới Hòa bình Lần thứ X, ngày 1 tháng 1 năm 1977: AAS 68 (1976), 709.
[2] Xem Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis, 38.
[3] Đã dẫn, 10.
[4] Xem Thông điệp nhân Ngày Thế giới Hòa bình, ngày 1 tháng 1 năm 2019 (8 tháng 12 năm 2018).